Luật Cơ Bản Cộng Hòa Liên Bang Đức 1949 - Quyền Cơ Bản

LUẬT CƠ BẢN CỘNG HÒA LIÊN BANG ĐỨC 1949


I. CÁC QUYỀN CƠ BẢN

Điều 1 [Nhân phẩm – nhân quyền – giá trị pháp lý của các quyền cơ bản]
(1) Phẩm giá con người là bất khả xâm phạm. Tôn trọng và bảo vệ nó là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan nhà nước. 
(2) Nhân dân Đức do đó thừa nhận các quyền bất khả xâm phạm và bất khả nhượng của con người như là cơ sở của mọi cộng đồng, của hòa bình và công lý trên thế giới. 
(3) Các quyền cơ bản sau  đây sẽ ràng buộc các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp như luật có thể áp dụng trực tiếp. 
Điều 2 [Tự do cá nhân]  
 (1)  Mọi người  đều có quyền phát triển nhân cách của mình tự do chừng nào người  ấy không vi phạm quyền của người khác hoặc vi phạm do chống lại trật tự hiến pháp hoặc luân lý. 
(2) Mọi người đều có quyền sống và toàn vẹn về thể chất. Tự do thân thể là bất khả xâm phạm. Những quyền này có thể bị giới hạn chỉ khi theo quy định của pháp luật. 
Điều 3 [Bình đẳng trước pháp luật] 
(1) Tất mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. 
(2) Nam và nữ có quyền bình  đẳng. Nhà nước thúc  đẩy việc thực hiện thực tế quyền bình đẳng cho phụ nữ và nam giới và thực hiện các bước để loại sự yếu thế hiện còn tồn tại. 
(3) Không ai  được  ưu tiên hoặc bị kỳ thị vì giới tính, huyết thống, chủng tộc, dân tộc, ngôn ngữ, nguồn gốc, đức tin, hoặc quan điểm tôn giáo hay chính trị. Không ai bị kỳ thị vì khuyết tật. 
Điều 4 [Tự do tín ngưỡng và lương tâm]
(1) Tự do đức tin và lương tâm, tự do tuyên xưng một tôn giáo hay tư tưởng là bất khả xâm phạm. 
(2) Việc thực hành tôn giáo không bị can thiệp được bảo đảm. 
(3) Không ai bị bắt buộc làm trái lương tâm của mình để thực hiện nghĩa vụ quân sự liên quan đến việc sử dụng vũ khí. Nội dung chi tiết được quy định bởi luật liên bang. 
Điều 5 [Tự do ngôn luận] 
 (1)  Mọi người  đều có quyền tự do biểu  đạt và phổ biến các quan điểm của mình bằng lời nói, chữ viết, hình ảnh và không bị trở ngại khi tiếp cận các nguồn thông tin có thể truy cập. Tự do báo chí và tự do truyền thông bằng các phương tiện phát sóng và phim  ảnh sẽ  được đảm bảo. Không có sự kiểm duyệt. 
 (2) Các quyền này có thể bị giới hạn trong các quy  định của pháp luật nói chung, trong các quy  định  để bảo vệ trẻ em và  để tôn trọng danh dự cá nhân. 
 (3)  Nghệ thuật, khoa học, nghiên cứu và giảng dạy  được tự do. Quyền tự do giảng dạy không miễn trừ cho bất kỳ người nào khỏi việc phải trung thành với hiến pháp. 
Điều 6 [Hôn nhân - gia đình - trẻ em] 
 (1) Hôn nhân và gia đình được sự bảo vệ đặc biệt của nhà nước. 
 (2) Việc chăm sóc và giáo dục trẻ em là quyền tự nhiên của cha mẹ và trách nhiệm vụ chủ yếu của họ. Nhà nước có trách nhiệm giám sát cha mẹ thực hiện trách nhiệm này. 
 (3) Trẻ em chỉ có thể bị tách ra khỏi gia đình chúng trái với ý muốn của cha mẹ hoặc người giám hộ theo quy định của luật, và chỉ khi cha mẹ hoặc người giám hộ không thực thi nhiệm vụ của mình hoặc đứa trẻ có nguy cơ bị bỏ bê nghiêm trọng. 
 (4)  Mỗi người mẹ  được hưởng sự bảo vệ và chăm sóc của cộng đồng. 
 (5) Trẻ em sinh ra ngoài hôn nhân được pháp luật quy định có cùng cơ hội phát triển thể chất và tinh thần, vị trí của chúng trong xã hội được hưởng như những em sinh ra trong hôn nhân. 
 Điều 7 [Hệ thống giáo dục] 
 (1)  Toàn  bộ hệ thống trường học  được  đặt dưới sự giám sát của nhà nước. 
 (2) Cha mẹ và người giám hộ có quyền quyết định xem liệu trẻ em có nhận được sự hướng dẫn về tôn giáo hay không. 
(3)  Hướng dẫn về tôn giáo sẽ là một phần của chương trình giảng dạy thường xuyên trong các trường học nhà nước, ngoại trừ các trường học phi giáo phái. Không làm  ảnh hưởng  đến quyền giám sát của nhà nước, hướng dẫn tôn giáo  được thực hiện phù hợp với các nguyên lý của cộng đồng tôn giáo có liên quan. Giáo viên không bị bắt buộc thực hiện việc hướng dẫn tôn giáo nếu họ không muốn. 
 (4) Quyền thành lập các trường tư thục được bảo đảm. Trường học tư thục hoạt  động như là lựa chọn thay thế cho các trường học nhà nước đòi hỏi phải có sự chấp thuận của nhà nước và phải tuân thủ luật của Bang. Sẽ được chấp thuận nếu các trường tư thục không thua kém các trường công lập về mục tiêu giáo dục, cơ sở vật chất, hoặc đội ngũ giảng viên  được  đào tạo chuyên nghiệp, và không khuyến khích sự phân biệt học sinh theo điều kiện của cha mẹ. Sự chấp thuận sẽ bị thu hồi lại nếu các  điều kiện kinh tế và pháp lý của  đội ngũ giảng viên không đảm bảo đầy đủ. 
(5) Một trường tiểu học tư thục sẽ được chấp thuận chỉ khi cơ quan quản lý giáo dục thấy rằng nó phục vụ một lợi ích sư phạm  đặc biệt, hoặc nếu, theo đề nghị của cha mẹ hoặc người giám hộ, được thành lập như là một trường theo đạo hay theo nhiều đạo, hoặc như một trường được dựa trên một triết lý riêng và không có trường tiểu học nhà nước loại hình đó tồn tại trong khu vực. 
(6) Các trường dự bị sẽ tiếp tục bị bãi bỏ. 
Điều 8 [Tự do hội họp]
(1) Tất cả người  Đức có quyền hội họp hòa bình và không vũ trang mà không cần thông báo trước hoặc cho phép. 
 (2) Trong trường hợp hội họp ngoài trời, quyền này có thể được hạn chế bởi hoặc theo một đạo luật. 
Điều 9 [Tự do lập hội]
 (1) Tất cả người Đức có quyền thành lập các tập đoàn và hiệp hội khác. 
(2) Hiệp hội có mục đích hoặc hoạt động trái với luật hình sự, hoặc là chống lại trật tự hiến pháp hay các giá trị được quốc tế tôn trọng, sẽ bị cấm. 
 (3)  Quyền thành lập hiệp hội  để bảo vệ và cải thiện  điều kiện làm việc và kinh tế  được bảo  đảm cho mỗi cá nhân và tất cả các công việc hoặc nghề nghiệp. Các thỏa thuận hạn chế hoặc làm suy giảm quyền này là vô hiệu, các biện pháp nhắm  đến  đạt  được mục tiêu này là bất hợp pháp. Các biện pháp thực hiện theo  Điều 12a, khoản (2) và (3), Điều 35, khoản (4), Điều 87A, hoặc Điều 91 không thể trực tiếp chống lại các tranh chấp lao  động tham gia bởi các hiệp hội trong phạm vi ý nghĩa của câu  đầu tiên của khoản này nhằm bảo vệ và cải thiện các điều kiện kinh tế và lao động. 
Điều 10 [Bảo mật thư tín, bưu chính và viễn thông] 
(1) Sự riêng tư của thư tín, bưu chính và viễn thông là bất khả xâm phạm. 
(2) Các hạn chế có thể  được  đưa ra chỉ khi theo quy  định của luật. Nếu hạn chế nhằm bảo vệ trật tự tự do dân chủ cơ bản, sự tồn tại, an ninh của Liên bang hoặc của một Bang, luật có thể quy định rằng người bị  ảnh hưởng sẽ không  được thông báo về sự hạn chế và quyền khởi kiện ra Toà án được thay thế bằng việc xem xét vụ việc bởi một cơ quan và cơ quan bổ trợ được cơ quan lập pháp chỉ định. 
Điều 11 [Tự do đi lại] 
(1) Tất cả người  Đức có quyền  đi lại tự do trên toàn lãnh thổ liên bang. 
(2) Quyền này có thể  được hạn chế chỉ bởi hoặc theo một đạo luật, và chỉ trong các trường hợp thiếu phương tiện hỗ trợ  đầy  đủ sẽ khiến tạo ra gánh nặng đặc biệt cho cộng đồng, hoặc hạn chế như vậy là cần thiết để ngăn chặn sự nguy hiểm trước mắt cho sự tồn tại hoặc trật tự tự do dân chủ cơ bản của Liên bang hoặc của một Bang,  để chống lại các nguy hiểm của bệnh dịch, để đối phó với một tai nạn nghiêm trọng hoặc thiên tai,  để bảo vệ trẻ em khỏi bị bỏ bê nghiêm trọng, hoặc  để
ngăn chặn tội phạm. 
Điều 12 [Tự do nghề nghiệp]
 (1) Tất cả người Đức có quyền tự do lựa chọn công việc hoặc nghề nghiệp, nơi làm việc và nơi đào tạo của họ. Việc thực hành một công việc hoặc nghề nghiệp có thể  được quy  định bởi hoặc theo một  đạo luật. 
(2) Không ai có thể bị buộc thực hiện một loại công việc cụ thể, ngoại trừ trong khuôn khổ một nghĩa vụ truyền thống của cộng  đồng áp dụng phổ biến và bình đẳng cho tất cả mọi người. 
(3) Lao động cưỡng bức chỉ có thể áp dụng đối với người đã bị tước tự do bởi phán quyết của tòa án. 
Điều 12a [Nghĩa vụ quân sự bắt buộc và nghĩa vụ dân sự thay thế]
(1) Nam giới đến tuổi 18 có thể bị yêu cầu phục vụ trong Lực lượng vũ trang, Cảnh sát biên giới Liên bang, hoặc trong một tổ chức dân phòng. 
(2) Bất kỳ người nào, trên cơ sở của lương tâm, từ chối làm nghĩa vụ quân sự liên quan  đến sử dụng vũ khí có thể  được yêu cầu thực hiện những nghĩa vụ thay thế. Thời hạn của nghĩa vụ thay thế không được vượt quá nghĩa vụ quân sự. Nội dung chi tiết được quy định bởi luật, không được can thiệp đến tự do quyết định theo mệnh lệnh của lương tâm, và cũng đề ra các khả năng về nghĩa vụ thay thế không liên quan  đến các  đơn vị của Lực lượng vũ trang hoặc của Cảnh sát biên giới Liên bang. 
(3) Những người phải thực hiện nghĩa vụ quân sự bắt buộc mà không phải là người bị triệu tập thực hiện nghĩa vụ theo khoản (1) hoặc (2) điều này có thể, khi có tình trạng phòng vệ, được chỉ định bởi hoặc theo một đạo luật làm công việc liên quan đến nghĩa vụ dân sự cho các mục đích quốc phòng, bao gồm cả việc bảo vệ dân thường; họ có thể  được giao làm công việc chỉ với mục đích hỗ trợ chức năng cảnh sát hoặc các chức năng khác quản lý hành chính, những công việc chỉ có thể thực hiện được bằng cách tham gia vào công vụ. Công việc nêu tại câu đầu tiên của khoản này có thể bao gồm các nghĩa vụ trong lực lượng vũ trang, việc cung cấp vật tư quân sự, hoặc với các cơ quan hành chính công; việc hỗ trợ và phục vụ dân thường sẽ chỉ được phép nhằm đáp ứng nhu cầu cơ bản của họ hoặc để đảm bảo sự an toàn của họ. 
(4) Nếu, trong trạng thái phòng vệ, nhu cầu về các dịch vụ dân sự trong các hệ thống y tế dân sự hoặc trong bệnh viện quân sự không thể được đáp ứng trên cơ sở tự nguyện, phụ nữ trong độ tuổi từ 18 đến 55 có thể được triệu tập để thực hiện công việc bởi hoặc theo quy định của luật. Không trường hợp nào buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ liên quan đến việc sử dụng vũ khí. 
(5) Trước khi hiện diện trạng thái phòng vệ, yêu cầu thực hiện các nghĩa vụ theo quy  định của khoản (3)  điều này có thể  được thực hiện nếu các yêu cầu của khoản (1) của Điều 80a được đáp ứng. Để chuẩn bị cho việc thực hiện nghĩa vụ theo khoản (3) của Điều này mà đòi hỏi các kiến thức hoặc kỹ năng  đặc biệt, việc phải tham gia vào các khóa  đào tạo cần  được yêu cầu bởi hoặc theo quy  định của luật. Trong trường hợp đó, câu đầu tiên của khoản này sẽ không áp dụng. 
 (6) Nếu trong tình trạng phòng vệ, nhu cầu cần công nhân trong các khu vực quy định tại các câu thứ hai của khoản (3) Điều này không thể được  đáp  ứng trên cơ sở tự nguyện, quyền công dân  Đức từ bỏ nghề nghiệp hoặc nơi làm việc của họ có thể bị hạn chế bởi hoặc theo một đạo luật nhằm đáp ứng nhu cầu này. Trước khi sự tồn tại của tình trạng phòng vệ, câu  đầu tiên của  đoạn (5) của  Điều này  được áp dụng với những sửa đổi thích hợp. 
Điều 13 [Bất khả xâm phạm nhà riêng] 
(1) Nhà riêng là bất khả xâm phạm. 
(2) Việc khám xét chỉ có thể  được phép bởi một thẩm phán, hoặc vào thời điểm cấp thiết, bởi các cơ quan khác được luật cho phép và chỉ có thể được thực hiện theo cách thức luật đó quy định. 
(3) Nếu các dữ kiện cụ thể củng cố nghi ngờ rằng một người nào nào đó  đã phạm một tội phạm  đặc biệt nghiêm trọng  được một luật quy định cụ thể, các phương tiện kỹ thuật giám sát âm thanh ngôi nhà mà nghi can  đang  ở có thể  được sử dụng theo quyết  định của cơ quan tư pháp với mục đích truy tố hành vi phạm tội, với điều kiện các phương pháp điều tra thay thế khác là quá mức khó khăn hoặc không hiệu quả. Quyết định cho phép phải có thời hạn. Quyết định được đưa ra bởi một hội  đồng gồm 3 Thẩm phán. Khi thời gian gấp rút, nó cũng có thể do một thẩm phán đưa ra. 
(4) Để ngăn chặn mối nguy hiểm cho an toàn công cộng, đặc biệt là nguy hiểm đến tính mạng hoặc đối với công chúng, các phương tiện kỹ thuật giám sát nhà riêng có thể  được sử dụng theo quyết  định của cơ quan tư pháp. Khi thời gian gấp rút, các biện pháp như vậy cũng có thể được quyết định bởi các cơ quan khác được luật cho phép, quyết định của cơ quan tư pháp được đưa ra sau đó một cách nhanh chóng. 
(5) Nếu phương tiện kỹ thuật  đã  được dự tính chỉ nhằm bảo vệ người chính thức  ở trong một ngôi nhà, biện pháp này có thể  được quyết định bởi một cơ quan được luật định. Các thông tin thu được qua đó có thể sử dụng nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc  để tránh nguy hiểm, chỉ khi tính hợp pháp của biện pháp này đã được xác định bởi một thẩm phán; khi thời gian gấp rút, quyết  định của cơ quan tư pháp được đưa ra sau đó một cách nhanh chóng. 
(6) Chính phủ Liên bang có trách nhiệm báo cáo Hạ viện hàng năm về việc sử dụng kỹ thuật phù hợp với khoản (3) trong phạm vi thẩm quyền của Liên bang, phù hợp với khoản (4) và, trong chừng mực quyết  định tư pháp là cần thiết, phù hợp với khoản (5) của  Điều này. Một  ủy ban do Hạ viện bầu ra sẽ thực hiện sự kiểm soát của quốc hội trên cơ sở báo cáo này. Một sự kiểm soát của quốc hội tương tự sẽ được thực hiện ở cấp Bang. 
(7) Các can thiệp và hạn chế khác chỉ  được cho phép  để ngăn chặn một nguy hiểm cho công chúng hoặc cho tính mạng của một cá nhân, hoặc theo quy định của một đạo luật, để đối phó với nguy hiểm đe dọa an toàn và trật tự công cộng,  đặc biệt là  để giảm bớt tình trạng thiếu hụt nhà ở, chống lại sự nguy hiểm của dịch bệnh, hoặc để bảo vệ những trẻ em bị đe dọa. 
Điều 14 [Tài sản - thừa kế - tước quyền sở hữu] 
(1) Tài sản và quyền thừa kế  được  đảm bảo. Nội dung và giới hạn của chúng được các luật quy định. 
(2) Tài sản  đi kèm với các nghĩa vụ. Việc sử dụng nó cũng nhằm phục vụ lợi ích chung. 
(3) Việc tịch thu tài sản chỉ  được phép thực hiện vì lợi ích chung. Điều đó chỉ có thể được quyết định bởi hoặc theo một đạo luật xác định tính chất và mức độ bồi thường. Sự bồi thường này được xác định bằng việc tạo lập một sự cân bằng giữa lợi ích công cộng và lợi ích của người bị  ảnh hưởng. Trong trường hợp tranh chấp phát sinh liên quan  đến bồi thường, việc truy đòi có thể đưa ra các tòa án bình thường. 
Điều 15 [Xã hội hóa] 
Đất đai, tài nguyên thiên nhiên và các phương tiện sản xuất vì mục đích xã hội hoá có thể  được chuyển sang sở hữu nhà nước hoặc các hình thức doanh nghiệp nhà nước bởi một đạo luật xác định tính chất và mức độ bồi thường. Liên quan đến sự bồi thường đó, câu thứ ba và thứ tư của khoản (3) của  Điều 14 sẽ  được áp dụng với những sửa  đổi thích hợp. 
Điều 16 [Quốc tịch - dẫn độ] 
(1) Không người Đức nào có thể bị tước tư cách công dân của mình. Quốc tịch chỉ có thể bị mất theo một  đạo luật và trái với ý muốn của người bị  ảnh hưởng chỉ khi việc  đó không khiến người  đó trở thành người không quốc tịch. 
(2) Người Đức có thể bị dẫn độ tới một quốc gia nước ngoài. Luật có thể quy  định khác về dẫn  độ  đến một quốc gia thành viên của Liên minh châu Âu hoặc một tòa án quốc tế, với điều kiện nguyên tắc pháp quyền được tôn trọng.
Điều 16a [Quyền tị nạn] 
(1) Những người bị bức hại vì lý do chính trị sẽ có quyền tị nạn. 
(2) Khoản (1) của Điều này không thể được viện dẫn bởi một người đi vào lãnh thổ liên bang từ một quốc gia thành viên của Cộng  đồng châu Âu hoặc từ một nước thứ ba khác mà việc áp dụng Công ước liên quan đến địa vị của người tị nạn và Công ước về bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản được bảo đảm. Các quốc gia ngoài Cộng đồng Châu Âu mà áp dụng các tiêu chí của câu đầu tiên của khoản này sẽ được quy định chi tiết bởi một đạo luật có sự chấp thuận của Thượng viện. Trong các trường hợp quy định trong câu đầu tiên của khoản này, các biện pháp để chấm dứt sự lưu trú của người nộp  đơn có thể  được thực hiện mà không cần quan tâm đến bất kỳ thách thức pháp lý nào có thể đã được lập chống lại họ. 
(3) Bằng một  đạo luật có sự chấp thuận của Thượng viện, các quốc gia có thể quy  định cụ thể trong  đó trên cơ sở của luật, thực tiễn thi hành các  điều kiện chính trị nói chung, có thể kết luận rằng không có sự  đàn áp chính trị hay trừng phạt hoặc  đối xử vô nhân  đạo hoặc hạ nhục. Người nước ngoài từ quốc gia như vậy được coi là không bị  đàn áp, trừ khi anh ta đưa ra bằng chứng chứng minh kết luận, trái với giả định này, là người đó đã bị bức hại vì lý do chính trị. 
(4) Trong các quy định bởi khoản (3) Điều này và trong các trường hợp khác rõ ràng là vô căn cứ hoặc không có cơ sở, việc thực hiện các biện pháp chấm dứt sự lưu trú của người xin tỵ nạn có thể  được  đình chỉ do tòa án chỉ khi có sự nghi ngờ thực sự về tính hợp pháp; phạm vi xem xét có thể được hạn chế và các phản đối chậm trễ có thể được bỏ qua. Các chi tiết được xác định theo quy định của luật. 
(5) Khoản (1) đến khoản (4) của Điều này không loại trừ việc ký kết các thỏa thuận quốc tế giữa các quốc gia thành viên Cộng  đồng Châu Âu với nhau hoặc với những quốc gia thứ ba, có sự quan tâm  đến các nghĩa vụ phát sinh từ Công  ước liên quan  địa vị của người tị nạn và Công  ước bảo vệ nhân quyền và tự do cơ bản, việc thi hành các công ước này phải  được  đảm bảo tại các quốc gia ký kết thỏa thuận, thông qua các quy tắc trao thẩm quyền quyết định về đơn xin tị nạn, bao gồm việc công nhận có đi có lại các quyết định tị nạn. 
Điều 17 [Quyền khởi kiện] 
Mọi người đều có quyền, cá nhân mình hoặc cùng với những người khác, gửi văn bản đề nghị hoặc khiếu nại đến cấp có thẩm quyền và cơ quan lập pháp. 
Điều 17a [Hạn chế quyền cơ bản trong các trường hợp cụ thể] 
(1) Các luật liên quan đến nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ thay thế có thể quy  định rằng các quyền cơ bản của các thành viên lực lượng vũ trang và nghĩa vụ thay thế tự do biểu đạt và phổ biến ý kiến của mình bằng lời nói, chữ viết và hình  ảnh (đoạn thứ nhất khoản (1)  Điều 5), quyền hội họp (Điều 8) và quyền khởi kiện (Điều 17) liên quan đến việc nộp yêu cầu hoặc khiếu nại tập thể bị hạn chế trong thời kỳ tham gia nghĩa vụ quân sự hoặc nghĩa vụ thay thế. 
(2) Các luật liên quan đến quốc phòng, bao gồm cả việc bảo vệ dân thường, có thể quy  định việc hạn chế các quyền cơ bản về tự do  đi lại (Điều 11) và bất khả xâm phạm của nhà riêng (Điều 13). 
Điều 18 [Tước quyền cơ bản] 
Bất cứ người nào lạm dụng quyền tự do ngôn luận, đặc biệt là tự do báo chí (khoản (1)  Điều 5), tự do giảng dạy (khoản (3)  Điều 5), tự do hội họp (Điều 8), tự do lập hội (Điều 9), bí mật thư tín, bưu chính và viễn thông (Điều 10), quyền tài sản (Điều 14) hoặc quyền tị nạn (Điều 16a) để chống lại trật tự tự do dân chủ sẽ bị tước những quyền cơ bản. Việc tước quyền này và mức  độ của nó  được phán quyết bởi Tòa án Hiến pháp Liên bang. 
Điều 19 [Hạn chế các quyền cơ bản – các cơ chế pháp lý] 
(1) Theo quy định của Luật cơ bản này, một quyền cơ bản có thể bị hạn chế bởi hoặc theo một đạo luật, luật đó phải áp dụng phổ biến và không chỉ  đối với một trường hợp duy nhất. Ngoài ra, luật phải xác định các quyền cơ bản bị ảnh hưởng và điều luật quy định nó. 
(2) Không khi nào mà bản chất của một quyền cơ bản có thể bị ảnh hưởng. 
 (3) Các quyền cơ bản cũng  được áp dụng  đối với các pháp nhân trong nước trong phạm vi bản chất của quyền cho phép điều đó. 

(4) Nếu quyền của bất kỳ người nào bị vi phạm bởi cơ quan công quyền, người đó có thể nhờ tòa án bảo vệ. Nếu không có cơ chế pháp lý nào khác  đã  được thiết lập, vụ việc  được  đưa ra các tòa án bình thường. Câu thứ hai của khoản (2)  Điều 10 sẽ không bị  ảnh hưởng bởi khoản này.  



SHARE THIS

Author:

Previous Post
Next Post