NHỮNG ĐIỀU CẦN BIẾT VỀ HIẾN
PHÁP HỢP CHỦNG QUỐC HOA KỲ 1787
Hiến
Pháp Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ đề ra những bộ luật cơ bản của quốc gia. Hiến pháp
thiết lập nên hình thức chính phủ quốc gia và xác định quyền và các quyền tự do
của nhân dân Mỹ. Trong đó cũng nêu ra các mục tiêu của chính phủ quốc gia và
các biện pháp để đạt được các mục tiêu đó. Trước đó, các nhà lãnh đạo quốc gia
đã thành lập một liên minh các bang theo các Điều khoản Hợp bang. Nhưng Quốc hội
được thành lập theo Các điều khoản này thiếu quyền lực để các bang hợp tác với
nhau để giải quyết các vấn đề của quốc gia.
Sau
khi các bang giành độc lập trong Chiến tranh Cách mạng (1775-1783), họ phải đối
mặt với tất cả những vấn đề của chính phủ thời bình. Các bang phải bảo vệ luật
pháp và trật tự, thu thuế, trả khoản nợ công lớn, và điều tiết hoạt động thương
mại giữa các bang. Họ cũng phải giải quyết vấn đề các bộ lạc người da đỏ và đàm
phán với các chính phủ khác. Những chính khách hàng đầu như George Washington
và Alexander Hamilton bắt đầu bàn đến sự cần thiết phải xây dựng một chính phủ
quốc gia vững mạnh theo một hiến pháp mới. Hamilton đã giúp tổ chức đại hội lập
hiến họp ở Philadelphia, bang Pennsylvania, năm 1787 để sửa đổi các Điều khoản
Hợp bang. Nhưng thay vào đó, đa số các đại biểu tại Đại hội đã quyết định soạn
thảo một kế hoạch mới của chính phủ, tức là Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Hiến
pháp không chỉ thành lập nên một liên hiệp các bang mà còn lập ra một chính phủ
thực thi quyền lực của mình trực tiếp đối với tất cả công dân. Hiến pháp định
ra các quyền cho chính phủ quốc gia. Ngoài ra, nó bảo vệ các quyền dành cho các
bang và quyền của mọi cá nhân.
BỘ LUẬT TỐI CAO CỦA ĐẤT
NƯỚC
Hiến
pháp gồm lời nói đầu, 7 điều, và 27 điều bổ sung sửa đổi. Nó thiết lập nên một
hệ thống liên bang thông qua việc phân chia quyền lực giữa chính phủ quốc gia
và chính quyền bang. Nó cũng lập ra một chính phủ quốc gia cân bằng thông qua
việc phân chia quyền lực giữa ba ngành độc lập – hành pháp, lập pháp và tư
pháp. Ngành hành pháp, tức là Tổng thống, thực thi luật pháp quốc gia; ngành lập
pháp, tức là Quốc hội, đề ra luật quốc gia; và ngành tư pháp, tức là Tòa án Tối
cao và các tòa án liên bang khác, áp dụng và vận dụng luật khi phán quyết các
tranh chấp về pháp lý tại các tòa án liên bang. Các quyền lực liên bang được
nêu trong Hiến pháp bao gồm quyền thu thuế, tuyên bố chiến tranh và điều tiết
thương mại giữa các bang và với nước ngoài. Ngoài những quyền đại diện hay quyền
hạn xác định này (những quyền được nêu trong Hiến pháp), chính phủ quốc gia còn
có các quyền ngụ ý (những quyền được hàm ý một cách hợp lý từ các quyền đại diện).
Những quyền lực ngụ ý này giúp chính phủ đối phó với những yêu cầu thay đổi của
quốc gia. Ví dụ, Quốc hội không có quyền được phân bổ cụ thể nào về in tiền giấy.
Nhưng quyền đó được ngụ ý trong các quyền đại diện về vay mượn và đúc tiền.
Trong
một số trường hợp, chính quyền quốc gia và chính quyền bang có những quyền
trùng lặp nhau, tức là chính quyền cả hai cấp đều có thể hành động. Luật của
chính quyền quốc gia là tối cao trong trường hợp có xung đột. Những quyền mà Hiến
pháp không trao cho chính quyền quốc gia hay cấm đối với các bang được gọi là
quyền dành riêng và thuộc về người dân hoặc các bang. Quyền của bang bao gồm
quyền làm luật về ly dị, kết hôn, và các trường công. Quyền dành cho người dân
bao gồm quyền sở hữu tài sản và được xét xử bởi một bồi thẩm đoàn.
Tòa
án Tối cao có quyền lực cuối cùng trong vận dụng Hiến pháp. Nó có thể bỏ qua bất
kỳ luật nào của liên bang, bang hay địa phương khi đa số thẩm phán cho rằng luật
đó xung đột với bất kỳ nội dung nào của Hiến pháp.
NHU CẦU CẦN CÓ HIẾN PHÁP
Chính
phủ mới được thành lập theo các Điều khoản Hợp bang không đủ mạnh để lãnh đạo
quốc gia mới. Ví dụ, nó không có ngành hành pháp và hệ thống các tòa án quốc
gia. Nó không thể điều tiết thương mại giữa các bang hay đánh thuế các bang hay
người dân. Nó chẳng qua chỉ là một tập hợp các đại diện của 13 bang độc lập.
Năm
1783, sau Chiến tranh Cách mạng, cả nước Mỹ bước vào một giai đoạn bất ổn về
tình hình thương mại và chính trị. Alexander Hamilton và những người ủng hộ ông
lẽ ra có thể có đôi chút thành công trong việc vận động xây dựng một hiến pháp
mới nếu như tình hình tốt hơn. Một số sử gia có lẽ đã tô vẽ những khó khăn của
nền cộng hòa non trẻ bằng những gam màu quá ảm đạm. Nhưng rõ ràng là tình hình
trở nên tồi tệ hơn sau năm 1783. Mỗi bang hành động gần như một quốc gia độc lập.
Mỗi bang điều hành công việc của mình theo lợi ích của mình mà không quan tâm đến
nhu cầu của nền cộng hòa. Các bang lưu hành hàng chục đồng tiền khác nhau, hầu
hết các đồng tiền này có giá trị rất nhỏ. Các bang láng giềng đánh thuế hàng nhập
khẩu của nhau. Anh quốc từ chối nối lại các kênh thương mại vốn từng giúp các
thuộc địa này phát triển kinh tế rất nhiều. Các cơ quan lập pháp của bang từ chối
không trả những khoản nợ trong Chiến tranh Cách mạng. Nhiều bang thông qua các
bộ luật giúp con nợ thoát khỏi nghĩa vụ trả nợ.
Tệ
hại nhất là một số người bắt đầu nghĩ đến việc cầm lấy vũ khí một lần nữa để giải
quyết các vấn đề của mình. Ở miền Tây bang Massachusett s năm 1786, hàng trăm
nông dân đã đi theo Đại úy Danel Shays nổi loạn chống chính quyền bang. Quân đội
bang cuối cùng đã dẹp được cuộc nổi loạn của Shays. George Washington và các
nhà lãnh đạo khác tự hỏi liệu có phải các thuộc địa đã nổi loạn chống lại Anh
quốc mà chẳng mang lại một kết quả nào. Họ cảm thấy đã đến lúc chấm dứt những rắc
rối này và thiết lập hòa bình, kỷ cương bằng cách lập ra một chính phủ quốc gia
mới. Chính phủ mới này sẽ phải đủ vững mạnh để có được sự tuân thủ trong nước và
sự tôn trọng ở nước ngoài.
Đại
diện của năm bang đã họp ở Annapolis, bang Maryland, năm 1786. Họ đề xuất các
bang cử ra các đại biểu đi họp ở Philadelphia và xem xét việc sửa đổi các Điều
khoản Hợp bang. Đại hội nhất trí với đề xuất này và đề nghị mỗi bang chọn các đại
biểu đi dự Đại hội Lập hiến.
ĐẠI HỘI LẬP HIẾN
Đại
hội dự kiến khai mạc ngày 14/5/1787. Nhưng có quá ít trong số 55 đại biểu đến
Philadelphia vào ngày hôm đó. Cuối cùng vào ngày 25/5, Đại hội đã chính thức
khai mạc tại Hội trường Độc lập. Mười hai bang đã đáp lại lời mời dự Đại hội.
Rhode Island từ chối cử đại biểu vì không muốn chính phủ quốc gia can thiệp vào
công việc của Rhode Island.
Trong
số 55 đại biểu, 39 người đã ký vào Hiến pháp Hoa Kỳ ngày 17/9/1787. Một trong số
đó là John Dickinson từ bang Delaware đã rời Đại hội nhưng nhờ một đại biểu
khác là George Read ký hộ. William Jackson, thư ký của Đại hội, đã chứng kiến
việc ký kết. Các đại biểu gồm cả những người từng trải và yêu nước nhất của nền
cộng hòa mới. George Washington là Chủ tịch của Đại hội. Benjamin Franklin ở tuổi
81 đã tham dự với tư cách là Đại biểu của bang Pennsylvania. Nhân vật xuất
chúng Alexander Hamilton đại diện cho New York. James Madison của bang Virginia
đã nhận danh hiệu “Cha đẻ của Hiến pháp” nhờ những bài diễn văn, các cuộc
thương thuyết và những nỗ lực thỏa hiệp của ông. Madison đã phát biểu với các đại
biểu rằng họ đang xem xét một kế hoạch sẽ quyết định mãi mãi vận mệnh của chính
phủ cộng hòa”. Ông đã ghi lại những cuộc tranh luận và các quyết định của đại
biểu.
Những
người khác cũng liên quan nhiều đến việc soạn thảo Hiến pháp là John Dickinson,
Gouverner Morris, Edmund Randolph, Roger Sherman, James Wilson và George Wythe.
Morris có lẽ là đại biểu có ảnh hưởng nhất sau Madison và Washington. Ông được giao
nhiệm vụ tổng hợp tất cả các nghị quyết và quyết định của Đại hội thành văn bản
hoàn chỉnh. Morris thực sự là người “chấp bút” cho Hiến pháp. Bản gốc của văn
kiện này hiện lưu giữ tại Viện Lưu trữ Quốc gia ở Washington, D.C.
Một
số nhân vật quan trọng thời đó không tham dự Đại hội. John Adams và Th omas
Jeff erson vắng mặt do đi nước ngoài làm một số nhiệm vụ khác của chính phủ.
Samuel Adams và John Jay không được bang của mình cử làm đại biểu. Patrick
Henry từ chối sau khi được cử vì ông chống lại việc trao thêm quyền cho chính
phủ quốc gia. Ba thành viên hàng đầu của đại hội – Elbridge Gerry, George Mason
và Edmund Randolph – từ chối không ký vào Hiến pháp vì họ bất đồng với một số nội
dung trong đó.
Bối
cảnh của hiến pháp. Các đại biểu dự Đại hội Lập hiến chủ yếu dựa vào kinh nghiệm
khi xây dựng nên một chính phủ mới. Họ nhớ lại nhiều sự “Lá cờ đại đoàn kết”, lần
đầu tiên xuất hiện vào mùng 2 tháng 1 năm 1776, tại Cambridge, bang
Massachusetts. Ở đó, những đội dân quân đã tập hợp dưới sự lãnh đạo của Tướng
George Washington để thành lập lục quân. Ở trên, bức điêu khắc gỗ mô tả Quốc hội
bang được tổ chức tại Jamestown, bang Virginia vào năm 1619, trong đó các thành
viên hạ viện, hay “những người dân thành thị”, gặp gỡ với thống đốc và hội đồng.
Quốc hội bang đã lập nên cơ quan lập pháp thuộc địa đầu tiên của thế giới mới.
Bên trái, hình minh họa tờ công khố phiếu kho bạc năm 1775, trên đó kết hợp
nguyên nhân của sự độc lập của nước Mỹ với Đại hiến chương Anh năm 1215. 14 kiện
quan trọng trong quá trình phát triển của chính phủ hợp hiến. Trong đó có việc
công nhận Magna Carta, văn kiện hiến pháp của Anh vào năm 1215 và cuộc họp của
Đại hội Đại biểu Jamestown năm 1619. Một số thuộc địa cũng là những ví dụ về
hình thức chính phủ hợp hiến. Các chính quyền thuộc địa tuy còn khiếm khuyết
nhưng đã phát triển hơn các chính quyền khác cùng thời trong việc xây dựng quyền
tự do theo luật.
Khoảng
cùng thời gian với Chiến tranh Cách mạng, một số bang ở Mỹ đã thành lập chính
phủ hợp hiến. Năm 1777, John Jay của bang New York đã giúp soạn thảo hiến pháp
cho bang mình. John Adams của bang Massachusett s đã giúp soạn thảo Hiến pháp
Massachusett s năm 1780. Các đại biểu dự Đại hội Lập hiến ở Philadelphia đã sử
dụng nhiều ý tưởng và câu chữ trong các hiến pháp của những bang này và các
bang khác
Các
đại biểu cũng dựa vào những kinh nghiệm của bản thân. Ví dụ: Benjamin Franklin
đã đề xuất một kế hoạch tại Đại hội Albany năm 1754 để thống nhất các thuộc địa
dưới một chính quyền trung ương. Washington nhớ lại những khó khăn của ông
trong chiến tranh khi còn là Tổng Tư lệnh, ông đã phải làm việc với chính phủ Hợp
bang yếu kém. Hầu hết tất cả các đại biểu dự Đại hội đã từng tham gia quân đội
hay là cán bộ quản lý trong chính phủ. Các đại biểu thường bất đồng về chi tiết
nhưng thống nhất muốn có chính phủ mới đủ mạnh để lãnh đạo đất nước, nhưng
không quá mạnh để đe dọa đến những quyền tự do của các bang và người dân.
Các
thỏa hiệp. Nhiệm vụ xây dựng một chính phủ mới không dễ hoàn thành. Sự tranh chấp
giữa các đại biểu suýt phá vỡ Đại hội nhiều lần. Ví dụ, các đại biểu từ những
bang lớn và đông dân hơn bất đồng với những đại biểu các bang nhỏ về sự đại diện
trong cơ quan lập pháp quốc gia. Các bang lớn hơn ủng hộ Kế hoạch Virginia,
theo đó số dân sẽ quyết định số đại diện của một bang được bầu vào cơ quan lập
pháp. Các bang nhỏ hơn ủng hộ Kế hoạch New Jersey, trong đó đề xuất tất cả các bang
sẽ có số đại diện ngang bằng nhau. Các đại biểu bang Connecticut đề xuất một thỏa
hiệp giải quyết vấn đề này. Kế hoạch của họ đề nghị số đại diện ngang nhau
trong Th ượng viện, cùng với số đại diện tương ứng với số dân trong Hạ viện. Đề
xuất này được gọi là Thỏa hiệp Connecticut hay Đại thỏa hiệp.
Các
thỏa hiệp cũng giải quyết các xung đột về vấn đề nô lệ. Đại biểu các bang miền
Bắc muốn Quốc hội có quyền cấm buôn bán nô lệ nước ngoài và cuối cùng bãi bỏ chế
độ nô lệ. Hầu hết các đại biểu miền Nam không muốn Quốc hội có quyền này. Một
thỏa hiệp quyết định phải đến năm 1808 Quốc hội mới được phép kiểm soát buôn
bán nô lệ nước ngoài. Một thỏa hiệp khác liên quan đến vấn đề đếm số nô lệ như
thế nào trong việc xác định số nghị sĩ của một bang. Nô lệ không được coi là
công dân, và vì vậy Đại hội đã nhất trí chỉ tính ba phần năm số nô lệ để làm
căn cứ.
Các
đại biểu nhất trí rằng mỗi bang nên tổ chức một đại hội đặc biệt để bàn và bỏ
phiếu về Hiến pháp. Họ cũng quyết định rằng chừng nào có chín bang đã phê chuẩn
(chấp thuận) Hiến pháp, thì Hiến pháp sẽ có hiệu lực và họ có thể bắt đầu tổ chức
chính phủ mới của mình.
PHÊ CHUẨN HIẾN PHÁP
Chưa
đầy ba tháng sau khi Hiến pháp được ký kết, Delaware trở thành bang đầu tiên
phê chuẩn Hiến pháp vào ngày 7/12/1787. New Hampshire là bang thứ chín, và Hiến
pháp có hiệu lực từ ngày 21/7/1788. Nhưng những Nhà Sáng lập không thể chắc chắn
rằng Hiến pháp được chấp nhận rộng rãi cho đến khi những bang quan trọng là New
York và Virginia phê chuẩn nó. Sự chống đối mạnh mẽ có tổ chức chống lại Hiến
pháp đã hình thành ở hai bang này và các bang khác. Những người như Elbridge
Gerry, Patrick Henry, Richard Henry Lee và George Mason đã lên tiếng phản đối
việc phê chuẩn.
Những
người chỉ trích phản đối việc không đưa Tuyên ngôn Nhân quyền vào Hiến pháp, Tổng
thống có quá nhiều sự độc lập, và Th ượng viện quá nặng về tính quý tộc. Họ
cũng cho rằng Quốc hội có quá nhiều quyền và chính quyền quốc gia có quá nhiều
quyền lực. Những người ủng hộ Hiến pháp thì ủng hộ việc phê chuẩn. Họ được biết
đến là những người theo Chủ nghĩa Liên bang. Những người chống đối họ được gọi
là những người chống lại Chủ nghĩa Liên bang. Hai nhóm này khuếch trương đường
lối của mình trên báo chí, bằng các cuốn sách nhỏ, và trong các cuộc tranh luận
tại các hội nghị phê chuẩn. Các nhóm này phát triển thành những đảng phái chính
trị đầu tiên ở Mỹ.
Virginia
đã phê chuẩn Hiến pháp ngày 25/1/1788, và bang New York vào ngày 26/7. Đầu
tháng 1/1789, tất cả các bang ngoại trừ New York (do không cử được đại cử tri
trước thời hạn) đã phê chuẩn Hiến pháp đã chọn ra các đại cử tri bầu tổng thống
trong cơ quan lập pháp của mình hoặc do người dân bỏ phiếu bầu trực tiếp. Ngày
4/2, các đại cử tri đã chọn George Washington là Tổng thống đầu tiên của Hợp
chúng quốc Hoa Kỳ. Quốc hội đầu tiên theo Hiến pháp họp ở Th ành phố New York
ngày 4/3. Washington nhậm chức ngày 30/4. Nhưng Bắc Carolina và Rhode Island chỉ
phê chuẩn Hiến pháp và tham gia vào chính phủ mới khi Quốc hội đồng ý bổ sung
Tuyên ngôn Nhân quyền.
TUYÊN NGÔN NHÂN QUYỀN
Những
người theo chủ nghĩa Liên bang có lẽ chẳng bao giờ có được sự phê chuẩn ở một số
bang quan trọng nếu như họ không cam kết bổ sung Tuyên ngôn Nhân quyền vào Hiến
pháp. Hầu hết hiến pháp các bang được thông qua trong thời kỳ Cách mạng đều có
một tuyên bố rõ ràng về quyền của người dân. Hầu hết người Mỹ tin rằng không hiến
pháp nào có thể coi là hoàn chỉnh nếu không có một tuyên bố như thế. George
Mason của bang Virginia chịu trách nhiệm soạn thảo Tuyên ngôn Nhân quyền đầu
tiên và nổi tiếng nhất của Mỹ, với tên gọi là Tuyên ngôn các quyền Công dân
bang Virginia năm 1776. Ông và Patrick Henry có thể đã ngăn cản việc phê chuẩn
Hiến pháp ở Virginia nếu như những người theo chủ nghĩa Liên bang không đồng ý
với những yêu cầu sửa đổi của họ.
James
Madison đã lãnh đạo Quốc hội mới đề xuất các điều bổ sung sửa đổi. Ông đề xuất
15 điều bổ sung sửa đổi, và Quốc hội đã chấp nhận 12 trong số đó để chuyển cho
cơ quan lập pháp các bang phê chuẩn theo quy trình sửa đổi được đề ra trong Điều
5 của Hiến pháp. Đến ngày 15/12/1791, các cơ quan lập pháp cần thiết ở ba phần
tư số bang đã phê chuẩn 10/12 điều bổ sung sửa đổi. Mười điều bổ sung sửa đổi
này được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền. Một trong hai bản bị bác bỏ là về quy mô
của Hạ viện. Sửa đổi này đòi thay đổi số đại diện từ không quá một đại diện cho
30.000 dân sang không quá một đại diện cho 50.000 dân. Sửa đổi bị bác bỏ còn lại
quy định Quốc hội không thể thay đổi lương của các nghị sĩ cho đến sau khi tổ
chức bầu cử các đại diện. Sửa đổi này được phê chuẩn 202 năm sau đó và trở
thành Điều bổ sung sửa đổi thứ 27
Những
người chống lại Chủ nghĩa Liên bang chấp nhận thất bại khi Hiến pháp được thông
qua, và sau đó họ chủ trương giành quyền lực theo những quy định của Hiến pháp.
Những hành động của họ tạo nên một đặc thù chưa bao giờ thay đổi trong chính trị
Mỹ. Người Mỹ đôi khi cảm thấy bất mãn với chính sách và hành động của những người
cầm quyền. Nhưng hầu như không có người Mỹ nào lên án hệ thống hiến pháp hay cảm
thấy rằng một Đại hội Lập hiến thứ hai có lẽ sẽ tạo nên một hiến pháp tốt hơn
SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN
PHÁP
James
Madison tuyên bố “khi xây dựng một hệ thống mà chúng ta mong muốn sẽ tồn tại
trong một thời gian dài, chúng ta không nên bỏ qua những thay đổi trong khoảng
thời gian đó”. Hiến pháp được xây dựng để phục vụ lợi ích của người dân, dù
giàu hay nghèo, người miền Bắc hay miền Nam, nông dân, công nhân và doanh nhân.
Trong suốt nhiều năm, Hiến pháp đã được vận dụng đáp ứng những nhu cầu thay đổi
của Hợp chúng quốc Hoa Kỳ. Các đại biểu dự Đại hội Lập hiến tin tưởng mạnh mẽ
vào sự lãnh đạo của đa số, nhưng họ muốn bảo vệ các nhóm thiểu số chống lại bất
kỳ sự bất công nào của đa số. Họ đã đạt được mục đích này thông qua việc phân
chia và cân bằng quyền lực của chính phủ quốc gia.
Những
mục tiêu cơ bản khác của hiến pháp còn có sự tôn trọng quyền của cá nhân và các
bang, nhân dân cầm quyền, sự tách rời giữa nhà thờ và nhà nước, và vị thế tối
cao của chính phủ quốc gia. Hiến pháp đã được sửa đổi 27 lần, trong đó có Tuyên
ngôn Nhân quyền. Các điều bổ sung sửa đổi có thể được đề xuất bởi hai phần ba
thành viên trong mỗi viện hay bởi một đại hội toàn quốc do Quốc hội triệu tập
theo yêu cầu của các cơ quan lập pháp của hai phần ba số bang. Một Điều bổ sung
sửa đổi trở thành bộ phận của Hiến pháp sau khi được phê chuẩn hoặc bởi cơ quan
lập pháp của ba phần tư số bang hoặc bởi các đại hội ở ba phần tư số bang. Quốc
hội quyết định nên sử dụng hình thức phê chuẩn nào và thời gian các bang phải
xem xét mỗi Điều bổ sung sửa đổi. Trong nhiều trường hợp, Quốc hội chọn thời hạn
bảy năm để xem xét một Điều bổ sung sửa đổi. Các đại biểu dự Đại hội Lập hiến
biết rằng họ không thể soạn thảo luật cho mọi khả năng tình huống. Do đó, họ
trao cho Quốc hội quyền thông qua tất cả các luật “cần thiết và hợp lý” để thực
hiện các quyền lực Hiến pháp trao cho Tổng thống, Quốc hội, và các tòa án liên
bang. Quốc hội đã thông qua luật thành lập những tổ chức hành chính như Cục
Hàng không Liên bang và Cục Bưu điện. Quốc hội cũng đã thông qua luật điều tiết
thương mại liên bang, qua đó kiểm soát nhiều khía cạnh của nền kinh tế Mỹ.
PHÁN QUYẾT CỦA TÒA ÁN.
Thẩm
phán liên bang và bang áp dụng Hiến pháp trong nhiều vụ án. Tòa án Tối cao có
quyền lực cuối cùng trong việc diễn đạt ý nghĩa của Hiến pháp trong bất kỳ trường
hợp cụ thể nào. Tòa án có quyền xem xét lại về pháp lý – tức là họ có thể tuyên
bố một bộ luật là bất hợp hiến. Tòa án Tối cao có quyền này do phán quyết của
Chánh án John Marshall trong vụ Marbury kiện Madison năm 1803. Kể từ đó, tòa án
đã phán quyết hơn 100 bộ luật liên bang và hàng trăm bộ luật bang là bất hợp hiến.
HÀNH ĐỘNG CỦA TỔNG THỐNG
Những
Tổng thống mạnh đã sử dụng quyền lực của mình để mở rộng những ngôn từ đơn giản
trong Điều 2 của Hiến pháp thành nguồn quyền lực mạnh mẽ của tổng thống. Những
Tổng thống mạnh như vậy có George Washington, Th omas Jeff erson, Andrew
Jackson, Abraham Lincoln, Th eodore Roosevelt, Woodrow Wilson, Franklin
D.Roosevelt, và George W. Bush. Ví dụ, Washington đã biến Tổng thống trở thành
nhân vật hàng đầu trong lĩnh vực đối ngoại. Lincoln đã sử dụng những quyền
trong điều này để giải phóng nô lệ nổi loạn ở các bang miền Nam trong cuộc Nội
chiến (1861-1865). Tập quán đã làm cho Hiến pháp trở nên linh hoạt và đã tăng
thêm quyền của chính phủ quốc gia. Ví dụ, nội các của Tổng thống đã phát triển
từ những nội dung trong Điều 2 cho phép người đứng đầu “yêu cầu đóng góp ý kiến
bằng văn bản của cán bộ phụ trách từng bộ phận điều hành, về bất kỳ chủ đề nào
liên quan đến nhiệm vụ của từng bộ phận đó”.
HÀNH ĐỘNG CỦA BANG VÀ ĐẢNG
PHÁI
Hiến
pháp quy định về một phương thức chung để bầu cử Tổng thống. Hiến pháp không đề
cập tới các đảng phái chính trị. Nhưng luật của các bang và hoạt động của các đảng
phái chính trị đã làm thay đổi hệ thống bầu cử trong hiến pháp thành những chiến
dịch vận động và những cuộc bầu cử thú vị diễn ra ngày nay. Hiến pháp đã tiếp tục
phát triển đáp ứng những yêu cầu của một xã hội ngày càng phát triển thông qua
tất cả những phương thức trên. Nhưng tinh thần và nội dung của Hiến pháp vẫn nhất
quán. Con người mỗi thế hệ đã vận dụng các điều khoản của Hiến pháp để giải quyết
các vấn đề của mình theo những cách có vẻ là hợp lý đối với họ. Chính khách người
Anh William E. Gladstone đã mô tả Hiến pháp là “tác phẩm tuyệt vời nhất từng được
sản sinh ra vào một thời điểm nhất định bởi trí óc và vì mục đích của con người”.
Trong một thế giới đổi thay và tranh đấu, nhân dân Mỹ không có tài sản nào quý
giá hơn văn kiện vĩ đại này. Toàn văn Hiến pháp Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, kèm theo
chú giải được trình bày trong những trang tiếp theo. Sau toàn văn là phần giải
thích.