NGHỊ VIỆN NHÂN DÂN
Điều thứ 22
Nghị viện nhân dân là cơ quan có quyền cao nhất của nước
Việt Nam dân chủ cộng hoà.
Điều thứ 23
Nghị viện nhân dân giải quyết mọi vấn đề chung cho toàn
quốc, đặt ra các pháp luật, biểu quyết ngân sách, chuẩn y các hiệp ước mà Chính
phủ ký với nước ngoài.
Điều thứ 24
Nghị viện nhân dân do công dân Việt Nam bầu ra. Ba năm bầu
một lần.
Cứ 5 vạn dân thì có một nghị viên.
Số nghị viên của những đô thị lớn và những địa phương có
quốc dân thiểu số sẽ do luật định.
Điều thứ 25
Nghị Viên không phải chỉ thay mặt cho địa phương mình mà còn
thay mặt cho toàn thể nhân dân.
Điều thứ 26
Nghị viện nhân dân tự thẩm tra xem các nghị viên có được bầu
hợp lệ hay không.
Điều thứ 27
Nghị viện nhân dân bầu một Nghị trưởng, hai Phó nghị trưởng,
12 uỷ viên chính thức, 3 uỷ viên dự khuyết để lập thành Ban thường vụ.
Nghị trưởng và Phó nghị trưởng kiêm chức Trưởng và Phó
trưởng Ban thường vụ.
Điều thứ 28
Nghị viện nhân dân mỗi năm họp hai lần do Ban thường vụ
triệu tập vào tháng 5 và tháng 11 dương lịch.
Ban thường vụ có thể triệu tập hội nghị bất thường nếu xét
cần.
Ban thường vụ phải triệu tập Nghị viện nếu một phần ba tổng
số nghị viên hoặc Chính phủ yêu cầu.
Điều thứ 29
Phải có quá nửa tổng số nghị viên tới họp, hội nghị mới được
biểu quyết.
Nghị viện quyết nghị theo quá nửa số nghị viên có mặt.
Nhưng muốn tuyên chiến thì phải có hai phần ba số nghị viện
có mặt bỏ phiếu thuận.
Điều thứ 30
Nghị viện họp công khai, công chúng được vào nghe.
Các báo chí được phép thuật lại các cuộc thảo luận và quyết
nghị của Nghị viện.
Trong những trường hợp đặc biệt, Nghị viện có thể quyết nghị
họp kín.
Điều thứ 31
Những luật đã được Nghị viện biểu quyết, Chủ tịch nước Việt
Nam phải ban bố chậm nhất là 10 hôm sau khi nhận được thông tri. Nhưng trong
hạn ấy, Chủ tịch có quyền yêu cầu Nghị viện thảo luận lại. Những luật đem ra
thảo luận lại, nếu vẫn được Nghị viện ưng chuẩn thì bắt buộc Chủ tịch phải ban
bố.
Điều thứ 32
Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân
phúc quyết, nếu hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý.
Cách thức phúc quyết sẽ do luật định.
Điều thứ 33
Khi nào hai phần ba tổng số nghị viên đồng ý, Nghị viện có
thể tự giải tán. Ban thường vụ thay mặt Nghị viện tuyên bố sự tự giải tán ấy.
Điều thứ 34
Khi Nghị viện nhân dân đã hết hạn hoặc chưa hết hạn mà tự
giải tán thì Ban thường vụ giữ chức quyền cho đến khi bầu lại Nghị viện nhân
dân mới.
Điều thứ 35
Hai tháng trước khi Nghị viện nhân dân hết hạn, Ban thường
vụ tuyên bố cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới phải làm xong trong hai tháng
trước ngày Nghị viện hết hạn.
Khi Nghị viện nhân dân tự giải tán, Ban thường vụ tuyên bố
ngay cuộc bầu cử lại. Cuộc bầu cử mới làm xong trong hai tháng sau ngày Nghị
viện tự giải tán.
Chậm nhất là một tháng sau cuộc bầu cử, Ban thường vụ phải
họp Nghị viện nhân dân mới.
Trong khi có chiến tranh mà nghị viện hết hạn thì Nghị viện
hoặc Ban thường vụ có quyền gia hạn thêm một thời gian không nhất định. Nhưng
chậm nhất là sáu tháng sau khi chiến tranh kết liễu thì phải bầu lại Nghị viện.
Điều thứ 36
Khi Nghị viện không họp, Ban thường vụ có quyền:
a) Biểu quyết những dự án sắc luật của Chính phủ. Những sắc
luật đó phải đem trình Nghị viện vào phiên họp gần nhất để Nghị viện ưng chuẩn
hoặc phế bỏ.
b) Triệu tập Nghị viện nhân dân.
c) Kiểm soát và phê bình Chính phủ.
Điều thứ 37
Phải có quá nửa tổng số nhân viên bỏ phiếu thuận, những nghị
quyết của Ban thường vụ mới có giá trị.
Điều thứ 38
Khi Nghị viện không họp được, Ban thường vụ cùng với Chính
phủ có quyền quyết định tuyên chiến hay đình chiến.
Điều thứ 39
Đầu mỗi khoá họp, sau khi Ban thường vụ báo cáo công việc,
vấn đề bỏ phiếu tín nhiệm Ban thường vụ có thể nêu ra, nếu có một phần tư tổng
số nghị viên yêu cầu. Toàn Ban thường vụ phải từ chức nếu không được tín nhiệm.
Nhân viên Ban thường vụ cũ có thể được bầu lại.
Điều thứ 40
Nếu chưa được Nghị viện nhân dân đồng ý hay trong lúc Nghị
viện không họp mà chưa được Ban thường vụ đồng ý thì Chính phủ không được bắt
giam và xét xử những nghị viên.
Nghị viên không bị truy tố vì lời nói hay biểu quyết trong
Nghị viện.
Trong trường hợp phạm pháp quả tang, Chính phủ có thể bắt
giam nghị viên ngay nhưng chậm nhất là 24 giờ phải thông tri cho Ban thường vụ.
Ban thường vụ hoặc Nghị viện sẽ định đoạt.
Khi một nghị viên mất quyền ứng cử thì đồng thời mất cả tư
cách nghị viên.
Điều thứ 41
Nghị viện phải xét vấn đề bãi miễn một nghị viên khi nhận
được đề nghị của một phần tư tổng số cử tri tỉnh hay thành phố đã bầu ra nghị
viên đó. Nếu hai phần ba tổng số nghị viên ưng thuận đề nghị bãi miễn thì nghị
viên đó phải từ chức.
Điều thứ 42
Phụ cấp của các nghị viên sẽ do luật định.