Công
ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị gồm 6 phần, 53 điều có hiệu lực
ngày 23 tháng 03 năm 1976. Lời mở đầu khẳng định chân lý bất di bất dịch
rằng việc công nhận những phẩm giá vốn có và quyền bình đẳng của mọi thành viên
trong cộng đồng nhân loại là nền tảng cho tự do, công lý và hòa bình trên thế
giới. Do đó, về các quyền dân sự và chính trị, Công ước quy định:
Phần
I (Điều 1) công
nhận quyền tự quyết của mọi dân tộc, bao gồm quyền được "tự do định
đoạt thể chế chính trị và theo đuổi đường hướng phát triển kinh tế, xã hội và
văn hoá" trong điều kiện thực tế của mình. Công nhận rằng quyền sinh
kế của một dân tộc không bao giờ bị tước bỏ. Để đạt được mục tiêu này, các dân
tộc có quyền tự do sử dụng các nguồn lợi thiên nhiên của mình, miễn là không vi
phạm những nghĩa vụ phát sinh từ sự hợp tác quốc tế về kinh tế, đặt căn bản
trên quyền lợi hỗ tương và luật pháp quốc tế. Các quốc gia hội viên ký kết
Công Ước này, kể cả những quốc gia có trách nhiệm bảo hộ hay giám hộ các lãnh
thổ khác, phải tôn trọng và xúc tiến việc thực thi quyền dân tộc tự quyết chiếu
theo các điều khoản của Hiến chương Liên Hiệp Quốc.
Phần
II (Điều 2 - 5) yêu
cầu các bên thực hiện các bước cần thiết để hiện thực hóa các quyền được công
nhận trong Công ước, đồng thời trừng phạt và sửa chữa bất kỳ vi phạm nào trong
quá khứ và hiện tại. Nó yêu cầu các bên cam kết tôn trọng và bảo đảm thực thi
những quyền được thừa nhận trong Công Ước cho "tất cả mọi người sống trong
lãnh thổ và thuộc thẩm quyền quốc gia, không phân biệt chủng tộc, màu da, nam
nữ, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến hay quan niệm, nguồn gốc quốc gia hay xã
hội, tài sản, dòng dõi hay bất cứ thân trạng nào khác." và nhấn mạnh nam
nữ được hưởng các quyền về dân sự và chính trị nêu trong Công ước một cách bình
đẳng. Những quyền này "chỉ có thể bị giới hạn trong trường hợp khẩn
cấp đe dọa đến sự tồn vong của một quốc gia", và ngay cả trong trường hợp
đó cũng không tha thứ bất kỳ hành vi nào xâm phạm các quyền được sống, quyền
không bị tra tấn và bị bắt làm nô lệ, quyền miễn trừ hồi tố, quyền được giữ
nguyên chính kiến, quyền tự do tư tưởng – lương tâm và tôn giáo.
Phần III (Điều 6 - 27)
liệt kê các quyền được Công ước bảo hộ, bao gồm các quyền sau:
·
Quyền toàn vẹn thân thể, tức là quyền được sống, không bị tra
tấn và bị bắt làm nô lệ (Điều 6, 7, và 8);
·
Quyền tự do và an toàn nhân thân, tức là quyền không bị bắt và
bỏ tù vì các lý do không chính đáng (Điều 9 – 11);
·
Quyền bình đẳng trước luật, và mọi cáo trạng phải đúng trình tự
pháp luật. Bị cáo về các tội hình sự có quyền được chấp nhận là vô
tội cho đến khi bị chứng minh là có tội theo luật. (Điều 14, 15, và 16);
·
Quyền tự do cá nhân được hiểu theo nghĩa tự do di chuyenr, tự do
tư tưởng, tự do lương tâm và tự do tôn giáo, tự do phát biểu và giữ
quan điểm mà không bị ai can thiệp, tự do lập hội và hội họp, tự do lập gia
đình, quyền khai sinh, và quyền bí mật đời tư. (Điều 12, 13, 17 – 24);
·
Ngăn cấm bất kỳ hình thức tuyên truyền cổ vũ chiến tranh hay
gieo giắc kỳ thị chủng tộc, tôn giáo. (Điều 20);
·
Quyền tham gia chính trị bao gồm quyền tự do thành lập, theo
hoặc không theo một đảng chính trị, và quyền bầu cử. (Điều 25);
·
Quyền được đối xử bình đẳng của các cộng đồng thiểu số trước
luật. (Điều 26 và 27).
Nhiều trong số các
quyền trên yêu cầu một số điều cụ thể mà các quốc gia hội viên phải thực hiện.
Phần IV (Điều 28 - 45)
quy định các nguyên tắc thành lập và hoạt động của Ủy ban Nhân quyền cùng
các công việc giám sát và báo cáo. Đồng thời, nó cũng yêu cầu các quốc gia thừa
nhận năng lực của Ủy ban trong giải quyết mâu thuẫn giữa các nước liên quan đến
việc thực thi Công ước. (Điều 41 và 42).
Phần V (Điều 46 - 47)
giải thích rằng Công ước sẽ không bị diễn giải theo cách can thiệp vào hoạt
động của Liên Hiệp Quốc hoặc "quyền của mọi dân tộc được thụ hưởng và sử
dụng một cách tự do và đầy đủ các nguồn tài nguyên của họ."
Phần 6 (Điều 48 - 53)
quy định cách thức phê chuẩn, thời gian có hiệu lực và cách sửa đổi bổ sung sau
này.