CHẾ
ĐỊNH BẢO HIẾN
Hiện nay trong giới nghiên cứu luật ở Việt Nam xuất hiện ba thuật
ngữ là “Chế độ bảo hiến”, “Cơ chế bảo hiến” và “Chế định bảo hiến” Tuy nhiêu
trong Blog này, tôi sử dụng thuật ngữ “Chế định bảo hiến” bởi vì:
Thứ nhất: Chế định là tập hợp một nhóm quy phạm pháp luật có đặc điểm giống nhau
để điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội tương ứng trong phạm vi một ngành luật hoặc nhiều ngành luật. Chế định có thể được hiểu
theo nghĩa rộng hoặc nghĩa hẹp. Nghĩa chung và rộng là các yếu tố cấu thành cơ
cấu pháp lí của thực tại xã hội, nghĩa hẹp là tổng thể các quy phạm, quy tắc của một vấn đề pháp lí.
Cơ cấu bên trong của pháp luật có đặc điểm ở tính đa dạng của các
chế định, trong đó có chế định liên ngành, nghĩa là có quan hệ đến một số ngành
luật. Các chế định pháp luật liên ngành được hình thành và hoạt động không
giống nhau. Hiến pháp là cơ sở pháp lí của tất cả các chế định pháp
luật. Việc xác định đúng tính chất chung của mỗi nhóm quan hệ xã hội từ đó
đề ra những quy phạm tương ứng có ý nghĩa quan trọng, đó là cơ sở pháp lý để
tạo ra cơ cấp pháp lý của một ngành luật. Không thể xây dựng được một văn bản
pháp luật tốt cũng như một ngành luật hoàn chỉnh nếu không xác định rõ giới hạn
và nội dung của các chế định pháp luật. Nhiều chế định hợp lại sẽ cấu
thành ngành luật, các ngành luật hợp lại sẽ tạo thành một hệ thống pháp luật.
Chế định pháp luật mang tính chất nhóm, mỗi chế định có một đặc
điểm riêng nhưng chúng đều có mối liên hệ nội tại và thống nhất với nhau, chúng
không tồn tại một cách biệt lập. Việc xác định ranh giới giữa các chế định nhằm
tạo ra khả năng để xây dựng hệ thống quy phạm pháp luật phù hợp với thực tiễn
đời sống xã hội. Và phải đặt các chế định trong mối liên hệ qua lại trong một
chỉnh thể thống nhất của pháp luật cũng như một ngành luật. Mỗi chế định pháp
luật dùng mang đặc điểm riêng những nó cũng phải tuân theo các quy luật vật
động khách quan, chịu sự ảnh hưởng và tác động của chế định khác trong hệ thống
pháp luật.
Thứ hai: Hiên nay, trong hiến pháp một số nước, vấn đề bảo hiến
được xem là một chế định bắt buộc có trong Hiến pháp. Ví dụ như trong Luật cơ
bản 1949 của Cộng Hòa Liên Bang Đức.
Bảo
hiến (hay còn được gọi là bảo vệ hiến pháp, kiểm hiến, giám sát tư pháp hoặc
tài phán hiến pháp – constitutional review/judicial review), theo định nghĩa
của một số từ điển pháp luật phổ biến, là thẩm quyền của các tòa án của một
quốc gia được xem xét và đánh giá tính hợp hiến của các đạo luật hoặc quyết
định của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp. Sở dĩ bảo hiến thường được
gọi là tài phán hiến pháp (giám sát tư pháp/ judicial review) vì từ trước đến
nay nó gắn liền với chức năng của tòa án trong việc xem xét tính pháp lý trong
hoạt động của các cơ quan hành chính. Tuy nhiên, có cách hiểu bảo hiến rộng
hơn, trong đó chủ thể đóng vai trò này không chỉ là toà án mà còn bao gồm nghị
viện và hội đồng hiến pháp
Bảo hiến là tư duy của pháp quyền. Phương thức tư duy của bảo hiến
là hướng tới kiểm soát quyền lực của nhà nước để bảo vệ các quyền và tự do của
con người. Chế định bảo hiến là một chế định xử lý những hành vi vi phạm hiến pháp của
công quyền.
2
Cơ sở chế định bảo hiến
Ý nghĩa quan trọng và giá trị pháp lý của Hiến pháp chính là nguồn
gốc phát sinh vấn đề bảo vệ, giám sát việc tuân thủ Hiến pháp, và là cơ sở hình
thành chế định bảo hiến. Chế định bảo hiến chỉ tồn tại trên
cở sở một hiến pháp cương tính. Còn đối với hiến pháp nhu tính, thông thường
các nhà lập pháp không đặt ra vấn đề bảo hiến. Hiến pháp nhu tính là hiến pháp được sửa đổi bởi chính
cơ quan lập pháp thường, theo những thủ tục sửa đổi thường luật. Do đó không có
sự phân biệt hiệu lực pháp lý giữa hiến pháp và thường luật, và như vậy không
có sự mâu thuẫn giữa hiến pháp và thường luật. “Một đạo luật nghịch hiến pháp
thực ra là một đạo luật sửa đổi hiến pháp” Hiến pháp không có ưu thế hơn thường luật nên nhà cầm quyền không bị
giớn hạn bởi hiến pháp. Vì thế không phát sinh vấn đề bảohiến trong một chế độ hiến pháp nhu tính.
Hiến pháp cương tính là hiến pháp được sửa đổi theo những thủ tục
đặt biệt. Tính đặt biệt này là do có sự phân cấp hiệu lực pháp lý giữa hiến
pháp và thường luật: hiến pháp có hiệu lực pháp lý tối cao, thường luật phải
hợp hiến, không được mâu thuẫn với hiến pháp. Do đó nhà cầm quyền bị giới hạn
bởi hiến pháp. Với những đặc điểm đó, vấn đề bảo hiến được phát sinh trong một chế độ hiến pháp cương tính. Hiến pháp bất thành
văn của Vương Quốc Liên Hiệp Anh Và Bắc Ireland thuộc loại hiến pháp nhu tính,
nên ở Vương Quốc Liên Hiệp Anh và Bắc Ireland không tồn tại chế độ bảo hiến.
3
Chủ thể bảo hiến
Lập pháp và hành pháp là hai nhánh quyền lực mạnh và do đó dễ có
nguy cơ lạm quyền. Lập pháp có quyền ấn định cách hành xử của cả xã hội. Hành
pháp hàng ngày, hàng giờ tác động vào đời sống của con người, hay nói như Hegel
là hành pháp “ quan hệ một cách trực tiếp hơn
với cái đặc thù trong xã hội công dân và thực hiện lợi ích phổ biến ở bên trong
những mục đích đặc thù đó”
Sau cơ quan lập pháp là các cơ quan hành pháp rất dễ ban hành các
văn bản vi hiến. Vì Chính phủ và các cơ quan của Chính phủ có thể được Quốc hội
ủy quyền ban hành các văn bản pháp luật. Vậy hành vi vi phạm Hiến pháp thuộc
phạm vi bảo hiến là những hành vi ban hành các văn bản quy phạm pháp luật có
thể là luật và những văn bản pháp quy dưới luật làm thay đổi nội dung được quy
phạm của Hiến pháp quy định. Thay vì phải tổ chức cho các quy định của Hiến
pháp được thực hiện trên thực tế lại là những hành vi ngược lại cản trở Hành vi vi phạm hiến pháp
cần phải bảo hiến là những văn bản hạn chế quyền của công dân đã được hiến pháp bảo hộ.
Khác với lập pháp và hành pháp, tư pháp là một ngành quyền lực ít
có nguy cơ lạm quyền, ít nguy hiểm đối với các quyền hiến định của công dân, mà
còn là một ngành quyền lực được tạo ra nhằm để giải quyết các khiếu nại của
công dân khi các quyền hiến định của công dân bị chính quyền vi phạm.
Như vậy, việc trao cho tư pháp vai trò kiểm soát lập pháp và hành
pháp xuất pháp từ nguyên lý tổ chức quyên lực. Chính vì vậy, trên thế giới hiện nay, về mặt phổ biến ở đa số các nước, tư pháp đều có
vai trò kiểm soát lập pháp và hành pháp. Theo Báo cáo về tình hình phát triển thế giới năm 1997 của Ngân hành thế giới, tất cả các nước công nghiệp và nhiều
nước đang phát triển đã dựa vào ngành tư pháp để buộc ngành hành pháp phải chịu
trách nhiệm trước pháp luật và để giải thích và buộc phải thi hành các điều
khoản của Hiến pháp.
4
Các mô hình bảo hiến
Do các nước có chế định về bảo hiến đều chọn cơ quan bảo hiến
thuộc ngành tư pháp. Nên trên thế giới tồn tại 2 loại mô hình bảo hiến.
Đó là mô hình tập trung hóa và mô hình phi tập trung hóa.
Mô hình tập trung hóa là việc kiểm tra tư pháp được thực thi bởi
một cơ quan đặc biệt, độc lập với hệ thống tư pháp thường, và giữ độc quyền về
tài phán Hiến pháp.
Mô hình phi tập trung hóa là việc kiểm tra tư pháp được xem như
chức năng tự nhiên của cơ quan tư pháp. Nó không tồn tại bất cứ một cơ quan đặc
biệt nào giữ độc quyền về tài pháp Hiến pháp.