Các tu chính án Hiến pháp
Hoa Kỳ
của Chính phủ Hoa Kỳ, người dịch: Đại sứ quán
Hoa Kỳ tại Việt Nam
Dưới đây là các tu chính án
Hiến pháp Hoa Kỳ được phê chuẩn từ năm 1791 đến năm 1992. Mười tu chính án đầu
tiên được gọi là Tuyên ngôn Nhân quyền Hoa Kỳ được thông qua ngày 15 tháng 12
năm 1791, tu chính án thứ 26 được phê chuẩn ngày 5 tháng 7 năm 1971. Thực tế
thì Tuyên ngôn Nhân quyền có tổng cộng 12 điều trong đó chỉ các điều từ 3 đến
12 được thông qua năm 1791, điều 2 được thông qua năm 1992 còn điều 1 chưa bao
giờ được thông qua. Do đó chỉ các điều từ 2 đến 12 là các tu chính án Hiến pháp
Hoa Kỳ.
Tu
chính án I
(Các tu chính án từ I đến X được đề xuất ngày 25 tháng 9 năm
1789, phê chuẩn ngày 15 tháng 12 năm 1791)
Quốc hội sẽ không ban hành một đạo luật nào nhằm
thiết lập tôn giáo hoặc ngăn cấm tự do tín ngưỡng, tự do ngôn luận, báo chí và
quyền của dân chúng được hội họp và kiến nghị Chính phủ sửa chữa những điều gây
bất bình.
Tu chính án II
Xét thấy lực lượng dự bị có tổ chức nghiêm chỉnh
là rất cần thiết cho nền an ninh của một quốc gia tự do, quyền của dân chúng
được giữ và sử dụng vũ khí sẽ không bị vi phạm.
Tu chính án III
Không một quân nhân nào trong thời bình được
đóng quân trong bất cứ nhà dân nào nếu không được sự đồng ý của chủ nhà, và
ngay trong thời chiến cũng chỉ theo qui định của luật pháp.
Tu chính án IV
Quyền của con người được đảm bảo về cá nhân, nhà
cửa, giấy tờ và tài sản khỏi mọi sự khám xét và bắt giam, quyền này sẽ không
được vi phạm. Không một lệnh, trát nào được cấp nếu không có lý do xác đáng căn
cứ vào lời tuyên thệ hoặc sự xác nhận, đặc biệt cần miêu tả chính xác địa điểm
khám xét, người và đồ vật bắt giữ.
Tu chính án V
Không một ai bị buộc phải chịu trách nhiệm về
một tội nghiêm trọng hay một tội xấu xa khác nếu không có sự tường trình và cáo
trạng của Bồi thẩm đoàn, trừ những trường hợp xảy ra trong lục quân, hải quân
hoặc trong lực lượng dự bị, khi đang thi hành công vụ trong thời chiến hoặc
trong tình trạng xã hội gặp hiểm nguy. Không một ai sẽ bị kết án hai lần về
cùng một tội có nguy hại đến tính mạng và thân thể; không một ai bị ép buộc
phải làm chứng chống lại bản thân mình trong một vụ án hình sự và bị tước đoạt
sinh mạng, tự do hoặc tài sản, nếu không qua một quá trình xét xử theo đúng
luật; không một tài sản tư hữu nào bị trưng dụng vào việc công mà không được
bồi thường thích đáng.
Tu chính án VI
Trong mọi trường hợp truy tố hình sự, bị cáo có quyền
được xét xử một cách nhanh chóng và công khai bởi một Bồi thẩm đoàn công bằng
của bang hoặc khu vực nơi tội trạng xảy ra, nơi đã được pháp luật chỉ định
trước; bị cáo phải được thông báo về tính chất và lý do buộc tội, được đối chất
với các nhân chứng chống lại mình, được quyền triệu tập những nhân chứng để
biện minh và được sự giúp đỡ của luật sư bào chữa.
Tu chính án VII
Trong những vụ kiện tụng theo thông luật, nếu
giá trị tranh chấp quá 20 đô-la, thì quyền được xét xử bởi Bồi thẩm đoàn sẽ
được tôn trọng và không một vụ việc nào đã được Bồi thẩm đoàn xét xử lại phải
xem xét lại lần nữa ở bất cứ tòa án nào của Hoa Kỳ, mà phải căn cứ theo các quy
tắc của thông luật.
Tu chính án VIII
Không đòi hỏi những khoản tiền bảo lãnh quá cao,
không áp đặt những khoản tiền phạt quá mức và không áp dụng những hình phạt dã
man và khác thường.
Tu chính án IX
Việc liệt kê một số quyền trong Hiến pháp không
có nghĩa là phủ nhận hay hạ thấp những quyền khác của người dân.
Tu chính án X
Những quyền lực không được Hiến pháp trao cho
Liên bang và không bị ngăn cấm đối với các bang, thì thuộc về các bang cụ thể
hoặc nhân dân.
Tu chính án XI
(đề xuất ngày 4 tháng 3 năm 1794, phê chuẩn ngày 7 tháng 2 năm
1795)
Quyền lực tư pháp của Hoa Kỳ sẽ không được giải
thích với mục đích mở rộng ra các vụ tố tụng về luật pháp hay công lý mà công
dân của một bang khác hoặc công dân và đối tượng của một nước khác dựa vào đó
để khởi kiện hoặc truy tố một bang của Hoa Kỳ.
Tu chính án XII
(Đề xuất ngày 9 tháng 12 năm 1803, phê chuẩn ngày 15 tháng 6 năm
1804)
Các đại cử tri sẽ họp lại trong từng bang của họ
và bằng lá phiếu bầu Tổng thống và Phó Tổng thống. Ít nhất một trong hai người
này sẽ không phải là cư dân cùng một bang với họ. Họ sẽ ghi vào lá phiếu tên người
được bầu là Tổng thống và trên lá phiếu khác tên người được bầu làm Phó Tổng
thống. Và họ sẽ lập ra các bản danh sách khác nhau những người bầu cho Tổng
thống, những người bầu cho Phó Tổng thống và cả số phiếu bầu cho mỗi người. Họ
sẽ ký xác nhận vào những danh sách này, niêm phong và chuyển lên Chính phủ Hoa
Kỳ, trình lên Chủ tịch Thượng viện. Chủ tịch Thượng viện trước sự hiện diện của
Thượng viện và Hạ viện, sẽ mở tất cả các hồ sơ đã được chứng nhận và các phiếu
bầu sẽ được đem ra đếm. Người có số phiếu nhiều nhất trong cuộc bầu cử cho Tổng
thống sẽ đắc cử Tổng thống nếu con số này là đa số trong tổng số đại cử tri
được chỉ định; nếu không ai đạt số phiếu như vậy thì Hạ viện sẽ ngay lập tức bỏ
phiếu bầu Tổng thống trong những người có số phiếu bầu cao nhất, nhưng không
quá 3 người. Nhưng trong việc bầu Tổng thống này, việc bỏ phiếu sẽ được tính
theo các bang, đại diện của mỗi bang có một phiếu bầu. Số đại biểu qui định để
tiến hành việc này gồm một hoặc các thành viên của hai phần ba các bang và phải
có đa số các bang. Nếu Hạ viện đã được trao quyền bầu cử mà không bầu ra Tổng
thống trước ngày thứ 4 của tháng 3 tiếp theo, thì Phó Tổng thống sẽ là quyền
Tổng thống, cũng giống như trường hợp Tổng thống qua đời hoặc không đủ năng lực
như Hiến pháp quy định. Người có số phiếu bầu nhiều nhất cho Phó Tổng thống sẽ
đắc cử Phó Tổng thống nếu số phiếu này là đa số phiếu của tổng số đại cử tri
được chỉ định; nếu không có ai được đa số phiếu, thì Thượng viện sẽ căn cứ vào
hai người có số phiếu cao nhất trong danh sách để bầu ra Phó Tổng thống. Số đại
biểu cần thiết cho mục đích này gồm hai phần ba trong tổng số thượng nghị sĩ và
đa số trong tổng số là tiêu chuẩn cần thiết để chọn lựa. Người nào không đủ
tiêu chuẩn hợp hiến để đảm nhận chức vụ Tổng thống thì cũng không đủ tiêu chuẩn
để được chọn làm Phó Tổng thống Hoa Kỳ.
Tu chính án XIII
(Đề xuất ngày 31 tháng 1 năm 1865, phê chuẩn ngày 6 tháng 12 năm
1865)
Khoản 1
Không một chế độ nô lệ hoặc lao dịch cưỡng bức
nào có thể tồn tại ở Hoa Kỳ hoặc ở một nơi nào thuộc thẩm quyền của Hoa Kỳ, trừ
trường hợp trừng phạt thích đáng đối với tội phạm hình sự mà đương sự phạm
phải.
Khoản 2
Quốc hội sẽ có quyền thực thi điều này bằng
quyền lập pháp tương ứng.
Tu chính án XIV
(Đề xuất ngày 13 tháng 6 năm 1866, phê chuẩn ngày 9 tháng 7 năm
1868)
Khoản 1
Tất cả những người sinh ra trên lãnh thổ Hoa Kỳ
hoặc được nhập quốc tịch ở Hoa Kỳ và thuộc thẩm quyền tài phán ở đó, đều là
công dân của Hoa Kỳ và của bang mà họ sinh sống. Không một bang nào được ban
hành hoặc thực thi bất cứ đạo luật nào nhằm hạn chế đặc quyền hoặc quyền bất
khả xâm phạm của công dân Hoa Kỳ. Cũng không một bang nào có thể tước đoạt sinh
mệnh, tự do hoặc tài sản của một cá nhân mà không theo một quy trình do luật
định. Cũng không thể phủ nhận quyền được pháp luật bảo vệ một cách bình đẳng
của một cá nhân trong phạm vi thẩm quyền tài phán của bang đó.
Khoản 2
Số Hạ nghị sĩ được phân chia theo tổng số nhân
khẩu của các tiểu bang, ngoại trừ những người da đỏ không phải nộp thuế. Nhưng
trong bất cứ một cuộc bầu cử đại cử tri (để bầu Tổng thống và Phó Tổng thống
Hoa Kỳ), bầu cử các Hạ nghị sĩ trong Quốc hội, các quan chức hành pháp và tư
pháp của bang hoặc các thành viên của cơ quan lập pháp nơi đó, nếu quyền bầu cử
của nam công dân tuổi 21 và là công dân Hoa Kỳ bị phủ nhận hoặc hoặc bị tước bỏ
vì lý do nào đó (không kể trường hợp những người tham gia phiến loạn hoặc phạm
các tội khác), thì số đại cử tri ở đó sẽ bị giảm bớt theo tỷ lệ giữa tổng số
nam công dân và số nam công dân ở độ tuổi 21 tại bang đó.
Khoản 3
Những ai với tư cách là thành viên của Quốc hội,
hoặc một quan chức của Hoa Kỳ, hoặc một thành viên của một cơ quan lập pháp của
bang, hoặc quan chức hành chính hay tư pháp của bất cứ một bang nào đã tuyên
thệ ủng hộ Hiến pháp của Hoa Kỳ nhưng lại tham gia các cuộc nổi dậy hay phiến
loạn chống lại Hiến pháp hoặc trợ giúp hay úy lạo kẻ thù, thì không thể là
thượng nghị sĩ hoặc hạ nghị sĩ trong Quốc hội, hoặc đại cử tri để bầu Tổng
thống và Phó Tổng thống, hoặc phụ trách một cơ quan dân sự hay quân sự nào của
Hoa Kỳ hay của một bang nào đó. Nhưng Quốc hội có thể với 2/3 số phiếu của hai
phần ba thành viên mỗi Viện để bác bỏ sự nghiêm cấm nói trên.
Khoản 4
Giá trị của những khoản nợ công cộng của Hoa Kỳ,
được luật pháp đảm bảo, kể cả những khoản nợ để trả cho các khoản phụ cấp và
tiền thưởng cho công việc phục vụ trấn áp các cuộc nổi dậy và phiến loạn, không
bị chất vấn. Tuy nhiên Hoa Kỳ và bất cứ bang nào đều không thừa nhận hoặc thanh
toán các khoản nợ hay trái vụ liên quan tới sự hỗ trợ các cuộc nổi dậy và phiến
loạn chống lại Hoa Kỳ, hoặc đối với những yêu cầu bồi thường cho tình trạng mất
mát nô lệ hoặc giải phóng nô lệ. Những khoản tiền, nghĩa vụ và yêu cầu loại này
phải bị coi là phi pháp và không có giá trị.
Khoản 5
Bằng luật lệ thích hợp, Quốc hội có quyền triển
khai xem xét điều khoản này.
Tu chính án XV
(Đề xuất ngày 26 tháng 2 năm 1869, phê chuẩn ngày 3 tháng 2 năm
1870)
Khoản 1
Quyền bầu cử của các công dân Hoa Kỳ sẽ không bị
phủ nhận hoặc hạn chế, dựa vào lý do chủng tộc, màu da hay tình trạng nô lệ
trước đây.
Khoản 2
Quốc hội sẽ có quyền triển khai điều khoản này
bằng luật lệ thích hợp.
Tu chính án XVI
(Đề xuất ngày 12 tháng 7 năm 1909, phê chuẩn ngày 3 tháng 2 năm
1913)
Quốc hội sẽ có quyền ban hành và thu các khoản
thuế thu nhập có từ bất cứ nguồn nào mà không phân bổ tỷ lệ giữa các bang và
không dựa vào bất cứ sự thống kê và điều tra dân số nào.
Tu chính án XVII
(Đề xuất ngày 13 tháng 5 năm 1912, phê chuẩn ngày 8 tháng 4 năm
1913)
Thượng viện của Hoa Kỳ sẽ gồm có hai thượng nghị
sĩ của mỗi bang do dân chúng ở đó bầu ra với nhiệm kỳ 6 năm và mỗi thượng nghị
sĩ sẽ có một lá phiếu biểu quyết. Đại cử tri ở mỗi bang phải có đủ phẩm chất
cần thiết như là phẩm chất của đại cử tri ở bang có cơ quan lập pháp đông đảo
nhất.
Khi có chỗ trống trong số đại diện của tiểu bang
trong Thượng viện, cơ quan hành pháp của bang đó sẽ ban hành lệnh bầu cử để bổ
sung vào chỗ trống, với điều kiện là cơ quan lập pháp của bang đó trao quyền
tạm thời cho cơ quan hành pháp cho đến khi nhân dân bầu chọn được người bổ sung
vào những chỗ trống theo luật lệ sẵn có.
Điều khoản này sẽ không được giải thích làm ảnh
hưởng đến việc bầu cử hoặc nhiệm kỳ của thượng nghị sĩ được bầu ra, cho đến khi
nó có hiệu lực như một bộ phận của Hiến pháp.
Tu chính án XVIII
(Đề xuất ngày 18 tháng 12 năm 1917, phê chuẩn ngày 16 tháng 1 năm
1919, bị bãi bỏ bởi Tu chính án XXI ngày 5 tháng 12 năm 1933)
Khoản 1
Một năm sau khi phê chuẩn điều khoản này của
Hiến pháp, việc sản xuất, mua bán hoặc chuyên chở các loại rượu có cồn ở trong
nước, nhập khẩu từ nước ngoài, xuất khẩu từ Hoa Kỳ và các lãnh thổ thuộc thẩm
quyền của Hoa Kỳ đều bị cấm.
Khoản 2
Quốc hội và các bang có quyền lực như nhau khi
triển khai điều khoản này của Hiến pháp.
Khoản 3
Điều khoản này sẽ không có hiệu lực trừ phi được
phê chuẩn bởi cơ quan lập pháp của các bang như một tu chính án của Hiến pháp
trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển đến các bang như Hiến pháp quy
định.
Tu chính án XIX
(Đề xuất ngày 4 tháng 6 năm 1919, phê chuẩn ngày 18 tháng 8 năm
1920)
Khoản 1
Quyền bầu cử của các công dân Hoa Kỳ sẽ không bị
phủ nhận hoặc hạn chế bởi Liên bang hoặc bất cứ bang nào với lý do giới tính.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực hiện điều khoản này bằng
luật lệ thích hợp.
Tu chính án XX
(Đề xuất ngày 2 tháng 3 năm 1932, phê chuẩn ngày 23 tháng 1 năm
1933)
Khoản 1
Nhiệm kỳ của Tổng thống và Phó Tổng thống sẽ kết
thúc vào đúng trưa ngày 20 tháng giêng, và nhiệm kỳ của các thượng nghị sĩ và
hạ nghị sĩ sẽ kết thúc vào đúng trưa của ngày 3 tháng giêng của năm mà những
nhiệm kỳ trên sẽ kết thúc, nếu điều khoản này vẫn chưa được phê chuẩn và nhiệm
kỳ của những người kế nhiệm họ sẽ bắt đầu từ thời điểm đó.
Khoản 2
Quốc hội sẽ họp ít nhất mỗi năm một lần và kỳ
họp sẽ bắt đầu vào giữa trưa ngày 3 tháng giêng, trừ trường hợp họ có thể căn
cứ vào luật để xác định một ngày khác.
Khoản 3
Nếu vào thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ đã được ấn
định mà Tổng thống đắc cử qua đời, thì Phó Tổng thống đắc cử sẽ trở thành Tổng
thống. Nếu trước thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ đã được ấn định mà Tổng thống chưa
đắc cử hoặc Tổng thống đã đắc cử nhưng không đủ tư cách, thì Phó Tổng thống đắc
cử sẽ đảm đương cương vị Tổng thống cho đến khi Tổng thống được xác định là có
đủ tư cách. Quốc hội có thể căn cứ vào luật để quyết định về trường hợp khi cả
Tổng thống đắc cử và Phó Tổng thống đắc cử đều không đủ điều kiện, tuyên bố ai
sẽ đứng ra đảm đương quyền Tổng thống hoặc xác định cách thức để chọn người đảm
đương chức vụ Tổng thống cho đến khi Tổng thống hay Phó Tổng thống có đủ tư
cách.
Khoản 4
Quốc hội có thể căn cứ vào luật để quy định
trong trường hợp có sự qua đời của bất cứ cá nhân nào trong những người mà Hạ
viện có thể chọn làm Tổng thống khi Hạ viện được trao quyền lựa chọn đó; và
trong trường hợp có sự qua đời của bất cứ cá nhân nào trong những người mà
Thượng viện có thể chọn làm Phó Tổng thống khi Thượng viện được trao quyền lựa
chọn đó.
Khoản 5
Khoản 1 và khoản 2 sẽ có hiệu lực bắt đầu vào
ngày 15 tháng 10 sau khi điều khoản này được phê chuẩn.
Khoản 6
Điều này của Hiến pháp sẽ không có hiệu lực trừ
phi được phê chuẩn như những tu chính án của Hiến pháp bởi cơ quan lập pháp của
ba phần tư các tiểu bang trong 7 năm kể từ ngày được đệ trình.
Tu chính án XXI
(Đề xuất ngày 20 tháng 2 năm 1933, phê chuẩn ngày 5 tháng 12 năm
1933)
Khoản 1
Kể từ nay, tu chính án số 18 của Hiến
pháp bị bãi bỏ.
Khoản 2
Việc chuyên chở hay nhập khẩu nhằm cung cấp và
sử dụng rượu có cồn ở bất cứ bang nào hoặc lãnh thổ và vùng thuộc sở hữu của
Hoa Kỳ mà vi phạm luật ở những nơi đó sẽ bị nghiêm cấm.
Khoản 3
Điều này sẽ không có hiệu lực trừ phi nó được
các đại hội của các bang phê chuẩn như một tu chính án của Hiến pháp, theo qui
định của Hiến pháp, trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển đến các bang.
Tu chính án XXII
(Đề xuất ngày 24 tháng 3 năm 1947, phê chuẩn ngày 27 tháng 2 năm
1951)
Khoản 1
Không người nào được bầu giữ chức vụ Tổng thống
quá hai nhiệm kỳ và không người nào đã đảm đương chức vụ Tổng thống hoặc là
quyền Tổng thống quá hai năm trong nhiệm kỳ mà người khác đã đắc cử Tổng thống
sẽ được bầu vào chức vụ Tổng thống hơn một nhiệm kỳ. Nhưng điều khoản này không
áp dụng đối với những người đang giữ chức Tổng thống khi điều khoản này được
Quốc hội đề nghị và sẽ không ngăn cản bất cứ ai có thể giữ chức Tổng thống hoặc
quyền Tổng thống trong thời gian điều khoản này có hiệu lực đúng vào nhiệm kỳ
của họ, vì vậy họ sẽ tiếp tục cương vị Tổng thống hay quyền Tổng thống trong
thời gian nhiệm kỳ còn lại.
Khoản 2
Điều này sẽ không có hiệu lực trừ phi nó sẽ được
cơ quan lập pháp của ba phần tư các bang phê chuẩn như một tu chính án vào Hiến
pháp trong vòng 7 năm kể từ ngày Quốc hội chuyển tới các bang.
Tu chính án XXIII
(Đề xuất ngày 16 tháng 6 năm 1960, phê chuẩn ngày 29 tháng 3 năm
1961)
Khoản 1
Các địa hạt cấu thành nên các khu vực bầu cử
chính quyền của Hoa Kỳ sẽ được tổ chức theo thể thức mà Quốc hội quy định như
sau:
Số đại cử tri bầu Tổng thống và Phó Tổng thống mà các địa hạt có
được bằng tổng số thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ trong Quốc hội, nếu đó là một
bang, nhưng nếu số đại cử tri không nhiều hơn so với bang ít dân số nhất, thì
họ sẽ được ghép vào số đại cử tri do các bang bổ nhiệm, nhưng xuất phát từ mục
đích của cuộc bầu Tổng thống và Phó Tổng thống, thì họ sẽ được coi là các đại
cử tri do một bang bổ nhiệm, và họ sẽ họp với nhau ở khu vực bầu cử và hoàn
thành trách nhiệm do điều 12 của Tu chính án Hiến pháp qui định.
Khoản 2
Quốc hội có quyền đem lại hiệu lực cho điều
khoản này bằng luật lệ phù hợp.
Tu chính án XXIV
(Đề xuất ngày 27 tháng 8 năm 1962, phê chuẩn ngày 23 tháng 1 năm
1964)
Khoản 1
Quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ trong các vòng
bầu cử sơ bộ, hoặc trong các cuộc bầu cử Tổng thống hay Phó Tổng thống, cuộc
bầu đại cử tri để bầu Tổng thống, Phó Tổng thống, thượng nghị sĩ hay hạ nghị sĩ
trong Quốc hội, sẽ không bị phủ nhận hoặc hạn chế bởi Hoa Kỳ hay một bang nào
với lý do không có khả năng nộp thuế thân hoặc thuế khác.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực thi điều này bằng luật lệ
phù hợp.
Tu chính án XXV
(Đề xuất ngày 6 tháng 7 năm 1965, phê chuẩn ngày 10 tháng 2 năm
1967)
Khoản 1
Trong trường hợp Tổng thống bị phế truất, qua
đời hoặc từ chức, Phó Tổng thống sẽ trở thành Tổng thống.
Khoản 2
Trong trường hợp vị trí Phó Tổng thống bị bỏ
trống, Tổng thống sẽ chỉ định một người làm Phó Tổng thống, nhưng phải được đa
số phiếu bầu của cả hai Viện trong Quốc hội.
Khoản 3
Trong trường hợp Tổng thống chuyển đến Chủ tịch
lâm thời của Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện văn bản tuyên bố rằng Tổng thống
không thể thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình và cho đến khi Tổng thống
chuyển đến họ một văn bản với nội dung ngược lại thì những quyền lực và trách
nhiệm đó sẽ do Phó Tổng thống thực thi với tư cách quyền Tổng thống.
Khoản 4
Trong mọi trường hợp khi Phó Tổng thống và đa số
các quan chức chủ yếu của cơ quan hành pháp hay cơ quan tương đương nào khác mà
Quốc hội đã quy định bằng luật, chuyển lên Chủ tịch lâm thời của Thượng viện và
Chủ tịch Hạ viện văn bản của họ tuyên bố rằng Tổng thống không thể thực thi
những quyền lực và trách nhiệm của mình, thì Phó Tổng thống sẽ ngay lập tức nắm
quyền lực và trách nhiệm đó với tư cách quyền Tổng thống.
Sau đó, khi Tổng thống chuyển lên quyền Chủ tịch
của Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện văn bản tuyên bố về năng lực của mình, Tổng
thống có thể tiếp tục thực thi quyền lực và nhiệm vụ với điều kiện trong vòng 4
ngày Phó Tổng thống và đa số các quan chức chủ yếu của cơ quan hành pháp hay cơ
quan tương đương mà Quốc hội đã qui định chuyển đến Chủ tịch lâm thời của
Thượng viện và Chủ tịch Hạ viện văn bản tuyên bố về việc Tổng thống có đủ năng
lực thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình.
Nếu không phải trong kỳ họp, trong vòng 48 tiếng
đồng hồ Quốc hội sẽ phải họp để giải quyết vấn đề đó. Nếu Quốc hội trong vòng
21 ngày sau khi nhận được văn bản tuyên bố nói trên hoặc nếu vào thời điểm đó
không phải là kỳ họp thì trong vòng 21 ngày, Quốc hội phải họp để với hai phần
ba số phiếu của cả hai Viện quyết định về việc Tổng thống không thể thực thi
các quyền và trách nhiệm của mình, và Phó Tổng thống sẽ tiếp tục thực thi công
việc đó với tư cách là quyền Tổng thống, trong trường hợp ngược lại, Tổng thống
sẽ tiếp tục thực thi quyền lực và trách nhiệm của mình.
Tu chính án XXVI
(Đề xuất ngày 23 tháng 3 năm 1971, phê chuẩn ngày 1 tháng 7 năm
1971)
Khoản 1
Quyền bầu cử của công dân Hoa Kỳ từ 18 tuổi trở
lên sẽ không bị tước bỏ hoặc hạn chế bởi Liên bang hay bất cứ bang nào với lý
do tuổi tác.
Khoản 2
Quốc hội có quyền thực hiện điều này bằng luật
lệ thích hợp.
Tu chính án XXVII
(Đề xuất ngày 25 tháng 9 năm 1789, phê chuẩn ngày 7 tháng 5 năm
1992)
Trước cuộc bầu cử hạ nghị sĩ, không một điều
luật nào nhằm thay đổi các khoản trợ cấp cho công việc của thượng nghị sĩ và hạ
nghị sĩ sẽ có hiệu lực.
Chú thích
1.
[Tu chính án I] Xem Tuyên ngôn Nhân
quyền Hoa Kỳ, Điều thứ ba
2.
[Tu chính án II] Xem Tuyên ngôn Nhân
quyền Hoa Kỳ, Điều thứ tư
3.
[Tu chính án III] Xem Tuyên ngôn
Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ năm
4.
[Tu chính án IV] Xem Tuyên ngôn Nhân
quyền Hoa Kỳ, Điều thứ sáu
5.
[Tu chính án V] Xem Tuyên ngôn Nhân
quyền Hoa Kỳ, Điều thứ bảy
6.
[Tu chính án VI] Xem Tuyên ngôn Nhân
quyền Hoa Kỳ, Điều thứ tám
7.
[Tu chính án VII] Xem Tuyên ngôn
Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ chín
8.
[Tu chính án VIII] Xem Tuyên ngôn
Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ mười
9.
[Tu chính án IX] Xem Tuyên ngôn Nhân
quyền Hoa Kỳ, Điều thứ mười một
10.
[Tu chính án X] Xem Tuyên ngôn Nhân
quyền Hoa Kỳ, Điều thứ mười hai
11.
[Tu chính án XXVII]] Xem Tuyên ngôn
Nhân quyền Hoa Kỳ, Điều thứ hai